MỘT SỐ ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG GIỮA CÁC TÔN GIÁO LỚN


Tôn giáo nào cũng được sinh ra từ mong muốn được thỏa mãn về tâm linh của con người. Dù các tôn giáo ấy có khác nhau về những quan điểm nhân sinh quan, thế giới quan, về người sáng lập, hay những bối cảnh xã hội sinh ra nó, nhưng chúng vẫn có những điểm tương đồng. Điểm tương đồng đó được sinh ra từ tư duy triết học của con người. Đó chính là những yếu tố cấu thành tôn giáo.

Thiên đường và Địa ngục

Khái niệm Thiên đường và Địa ngục hầu hết được tìm thấy trong tất cả các tôn giáo trên thế giới. Trong chuyện cổ tích Ấn Độ và những đoạn trích từ Kinh Thánh của đạo Hinđu, đều có những bàn luận tỉ mỉ về Thiên đường và Địa ngục. Theo Kinh Vệ đà, mục tiêu lớn nhất là được tới Thiên đường. Điều này có thể đạt được thông qua sự tiến hành các nghi lễ cúng tế.

Tất cả những điều ước đều được thỏa mãn khi ở trên Thiên đường và thậm chí con người có được niềm hạnh phúc khi gặp mặt tổ tiên của chính họ. Sau này, khái niệm về sự cứu rỗi linh hồn (moska) đã trở nên mạnh mẽ hơn khái niệm Thiên đường. Chúa Krishna (đạo Hinđu) đã coi ước muốn (kama), sự tức giận (krodh) và lòng tham (lobh) là ba cánh cửa dẫn tới địa ngục.

Khái niệm Thiên đường và Địa ngục tồn tại trong cả hai đạo Cơ đốc và đạo Hồi. Trong suốt những giai đoạn đầu của đạo Cơ đốc, ý nghĩ về Địa ngục là người hung tàn giam hãm và hành hạ các linh hồn sau khi chết, nhưng sau đó suy nghĩ này đã dần được giảm đi.

Trong Hồi giáo, Thiên đường và Địa ngục được xem như là những trạng thái cuối cùng của đời người. Con người sẽ được tới Thiên đường hay bị vào Địa ngục là phụ thuộc vào những hành động của họ. Những người được lên Thiên đường, sẽ nhìn thấy Chúa và được hưởng niềm hạnh phúc thần tiên.

Kinh cầu nguyện và cách thức thờ cúng thần linh

Kinh cầu nguyện, sự thờ cúng và các nghi thức chiếm giữ một vị trí quan trọng trong tất cả các tôn giáo trên thế giới.

Kinh cầu nguyện và sự thờ cúng giúp thiết lập sự gần gũi giữa con người và Chúa trời. Kinh cầu nguyện là biểu hiện sự vâng phục của con người đối với Chúa trời. Cũng có thể gọi đây là sự biểu lộ lặp đi lặp lại lời cam kết của con người với Chúa.

Trong cuốn sách Kinh cầu nguyện của Fredrick Heeler có viết: “Kinh cầu nguyện là mối quan hệ đang tồn tại giữa con người và Chúa. Đó là mối quan hệ rất sâu sắc, một cuộc đối thoại, một vấn đề tâm linh, một sự cứu rỗi. Trong khi cầu nguyện, mối quan hệ trực tiếp này sẽ được thiết lập giữa cá nhân con người và Chúa. Con người mở lòng mình hướng tới Chúa trong suốt buổi cầu nguyện.”

Những yếu tố và hình thức của kinh cầu nguyện trong tất cả các tôn giáo hầu như đều giống nhau về những điểm thiết yếu. Tất cả những người cầu nguyện kết hợp sự nhún nhường và sự hàng phục đối với Đấng Tối cao. Họ cũng tán dương Đấng quyền uy và nói lời khẩn cầu xin Người cứu giúp họ thoát khỏi nỗi khổ đau buồn phiền và đạt mong ước nhận được lòng thương và ân huệ của Chúa mọi lúc.

Trong đạo Hinđu, sự thờ cúng, kinh cầu nguyện và sự hòa giải giữ vai trò quan trọng. Thánh ca được tìm thấy trong đầy đủ các bài hát của Kinh Vệ đà. Thánh ca không chỉ là tài sản của tôn giáo mà còn là tài sản của văn học. Một mặt, những bài thánh ca miêu tả sự huy hoàng của Chúa, mặt khác chúng cũng thể hiện sự tự nguyện phục tùng Chúa của con người. Tất cả thần thánh và tạo hóa đều là danh tiếng của Linh hồn Tối cao.

Câu thần chú dưới đây mở đầu Isha Upanishad (một trong những phần kinh cầu nguyện ngắn nhất gồm 17 hoặc 18 câu trong bản văn triết học của đạo Hinđu) là một trong những bài thánh ca phổ biến nhất.

“Tất cả các môn phái trong Vedanta (trường phái triết học tại Ấn Độ) đều coi Brahma (Phạm Thiên – một trong ba vị thần linh tối cao của Ấn Độ giáo) là đấng quyền lực duy nhất.”

Qua câu thần chú này ta có thể thấy, bản chất của Brahma là hình thành nên nền tảng của đạo Hinđu, triết lý, cơ cấu xã hội, văn học và nghệ thuật của tôn giáo này. Do đó, đạo Hinđu vô cùng đa dạng và phong phú trong chủ đề thờ cúng, cầu nguyện và thánh ca. Đạo Hinđu có nhiều luật lệ cho việc thờ cúng, cầu nguyện và những suy tư sâu lắng cho các hình thức không được quy cho hoặc được quy cho là của Chúa.

Trong lễ cầu nguyện và hòa giải, con người đầu hàng tất cả những lo lắng cũng như ước muốn của họ trước Đấng Toàn Năng. Trong Gita (Kinh thánh Hinđu), Shrikrishna nói với Arjuna về bốn loại tín đồ đó là: những người có ước muốn trần tục, những người tuyệt vọng, những người phải chịu đựng nguy hiểm hoặc lo lắng và những người tìm kiếm trí tuệ họ đều cầu nguyện.

Trong đạo Công giáo, lễ thờ cúng Chúa trời là tiến hành hình thức cầu nguyện. Nói cách khác, đây là một cuộc đối thoại với Chúa. Trong kinh cầu nguyện, trước hết miêu tả danh tiếng của Chúa, sau đó là những đặc điểm chi tiết, cuối cùng là những lời cầu khẩn của người sùng bái.

Đây là một trong những lời kinh cầu nguyện của đạo Công giáo:

“Cha của chúng con là Đấng sáng tạo trên Thiên đường
Linh Thiêng là tên của Người.
Vương quốc của Người đến
Nó sẽ được thực hiện trên trái đất như khi trên Thiên đường
Mang đến cho chúng con những ngày thức ăn no đủ.
Và tha thứ cho sự xâm phạm của chúng con
Như khi chúng con tha thứ cho những ai xâm phạm chống lại chúng con
Đưa đường chỉ lối chúng con thoát khỏi cám đỗ.
Nhưng hãy cứu giúp chúng con thoát khỏi điều xấu
Vì có Thiên đường, Quyền lực, Hào quang mãi mãi”
Đạo Công giáo cho rằng chỉ cách duy nhất thông qua cầu nguyện thì mới có thể đạt được hòa bình và sự rửa tội.

Lễ cầu nguyện có hai hình thức là cá nhân và tập thể. Đạo Công giáo cũng như đạo Hồi đều có hai hình thức cầu nguyện này. Trong đạo Công giáo, lễ cầu nguyện tập thể diễn ra trong Nhà thờ Thiên chúa, còn trong đạo Hồi, lễ cầu nguyện tập thể diễn ra trong nhà thờ Hồi giáo. Hoạt động thờ cúng và các nghi lễ công cộng cũng đóng vai trò quan trọng trong đạo Hinđu.

Trong đạo Hồi, mọi tín đồ đều phải ngồi cầu nguyện (Namaz) 5 lần trong một ngày.

Mục đích chính của Namazcũng giống như mục đích cầu nguyện của các tôn giáo khác. Đó là bày tỏ ước mong được nhận ân huệ của Thánh Allah và nguồn cảm hứng thúc đẩy con người đi theo con đường đúng đắn của Thánh Allah cũng như được đấng tối cao ban phát cho nhiều sức mạnh hơn.

Giới thiệu những thành quả của Namaz, người ta cho rằng một người khi đọc Namazvới một thân thể và tâm hồn trong sạch, sẽ được Thánh Allah cho lên Thiên đường và tội lỗi của người đó sẽ được tha thứ.

Namaz cũng truyền cảm hứng tới những người tôn thờ (namazi) đi theo con đường của tôn giáo và luật pháp. Đồng thời, nó cũng cứu giúp con người tránh xa những hành động tội lỗi.

Cũng giống với đạo Hinđu có huấn thị buộc người cầu nguyện phải có thân thể và tâm hồn trong sạch, thì trong đạo Hồi, một namazi phải đọc Namaz để tẩy sạch thân thể và tâm hồn. Có một sự tương đồng ngạc nhiên giữa lời chào (Sajda) của Namaz trong đạo Hồi và phần tỏ lòng tôn kính (Sashtang Dandvat) trong đạo Hinđu – hai tư thế khi làm lễ thờ cúng trong hai tôn giáo.

Trong Phật giáo, nghi lễ thờ cúng ngay thuở ban đầu chưa được đặt ra, nó chỉ có sau khi Đức Phật nhập diệt. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, nghi lễ thờ cúng lại là yếu tố quan trọng, thể hiện tính sống động của sinh hoạt Phật giáo nói chung và thể hiện tính đặc trưng của mỗi hệ phái Phật giáo nói riêng trong hoạt động tôn giáo của mình. Bên cạnh đó, Kinh sách để tụng niệm (dạng thức có tính tương đồng với cầu nguyện của các tôn giáo khác) vẫn nắm giữ một vai trò then chốt trong đạo Phật. Tuy nhiên, thuở đầu, không có bản giao kèo nào cho việc thờ cúng hay cầu nguyện trong đạo Phật. Theo lời Đức Phật, riêng cách chỉ dẫn đạo đức tốt là hành động tôn giáo chính nhưng với sự trải qua thời gian, thì nghi lễ thờ cúng, kinh cầu nguyện và hòa giải đã được hòa nhập vào đạo Phật.

Thánh địa và hành hương

Thánh địa có thể được hiểu là nơi phát tích các nhân vật khởi tạo nên tôn giáo. Là nơi các đấng khai sáng các tôn giáo sinh ra, hay giáng thế, hoặc tái sinh, hay thành đạo. Theo quan điểm chung của tín đồ các tôn giáo, Thánh địa là nơi đất thiêng, có vai trò quan trọng trong cuộc sống tu hành của các chức sắc và tín đồ các tôn giáo. Theo họ, Thánh địa lưu giữ những điều tốt lành, linh thiêng gắn với người khai sáng, có năng lượng hỗ trợ tín đồ trong cuộc sống, hành đạo và hướng tới Thiên đàng. Được hành hương thánh địa sẽ giúp cho các tín đồ được gần với đấng toàn năng, với Chúa Trời, Thượng đế, Niết Bàn… của các tôn giáo. Mecca của đạo Hồi, Bethleham của Kitô giáo, Bồ Đề đạo tràng của Phật giáo là những thánh địa nổi tiếng.

Cuộc hành hương là một phần quan trọng của đạo Hinđu nhưng cuộc hành hương tới Thánh địa Mecca cũng là một phần tất yếu trong đạo Hồi. Theo kinh Thánh, cuộc hành hương cũng được xem như một phương thức xuất sắc để nhận ra Chúa. Nghĩa của Tirth (cuộc hành hương) là mang tới sự cứu rỗi linh hồn. Cuộc hành hương tới vùng đất thánh và không khí trong sạch đã lột bỏ những ảnh hưởng độc nhất lên cơ thể con người. Trong suốt cuộc hành hương, quan trọng là phải giữ được tâm hồn, lời nói và hành động trong sạch. Tương tự như vậy, trong suốt Haji (cuộc hành hương tới Thánh địa Mecca), những người hành hương nên giữ mình thoát khỏi những mong muốn thực dụng, tình dục, suy nghĩ xấu và hành động xấu. Những tín đồ đạo Công giáo cũng tiếp tục nhiều cuộc hành hương, đặc biệt là tới Bethleham, nơi sinh của Chúa Giêsu Kitô. Trong đạo Phật cũng vậy, các tín đồ tiếp tục hành hương tới Bồ Đề đạo tràng và các địa điểm khác có liên quan tới Đức Phật.

Cơ sở thờ tự, nơi diễn ra các sinh hoạt tôn giáo cộng đồng

Một điểm tương đồng lạ lùng nữa tồn tại giữa các tôn giáo khác nhau là cơ sở thờ tự. Buổi cầu nguyện có thể được cho phép ở nhà hoặc ở các cơ sở thờ tự của các tôn giáo. Các đền chùa, tu viện, nhà tăng, nhà thờ, thánh thất,… là những nơi mà con người có thể cầu nguyện cùng với người khác trong cộng đồng.

Những địa điểm này cũng trở thành trung tâm diễn ra các hoạt động tôn giáo, xã hội và văn hóa. Kiến trúc của các cơ sở thờ tự khác nhau là tài sản của loài người. Trong cách trang trí các cơ sở thờ tự, có thể thoáng thấy mức độ cao nhất về tài năng nghệ thuật của con người. Dù là của tôn giáo nào thì cơ sở thờ tự và việc xây dựng nó luôn thu hút sự quan tâm của cộng đồng tín đồ không chỉ về tiền của mà còn cả những cảm hứng nghệ thuật. Và không ít những cơ sở thờ tự của các tôn giáo đã trở thành những công trình nghệ thuật quan trọng của quốc gia và của nhân loại.

Tôn giáo là thiên hướng bẩm sinh tự nhiên của loài người. Các hoạt động thờ cúng, cầu nguyện, hòa giải và tập trung là những quá trình tự nhiên của con người. Con người vẫn thiết tha nhằm đạt được sự hoàn hảo và để đạt được điều đó, cần phải có sự cầu viện đối với tôn giáo. Những tôn giáo khác nhau trên thế giới đưa ra nhiều phương thức khác nhau để đạt được sự hoàn hảo đó theo cách riêng của mỗi tôn giáo.

Bản chất tự nhiên của loài người đều giống nhau. Con người nghĩ theo cùng một cách về các chủ đề, bất chấp quốc gia, tín ngưỡng và cộng đồng. Đó là những suy nghĩ tự nhiên. Dòng suy nghĩ tự đến từ thời kỳ nguyên thủy. Bản chất tự nhiên của con người giống nhau; điều này lý giải tại sao có sự tương đồng trong các suy tư triết học của họ. Tôn giáo là kết quả của sự suy tư triết học này. Và những tương đồng của các tôn giáo về những yếu tố bản chất là dễ hiểu.

Like This Post? Please share!

  • Share to Facebook
  • Share to Twitter
  • Share to Google+
  • Share to Stumble Upon
  • Share to Evernote
  • Share to Blogger
  • Share to Email
  • Share to Yahoo Messenger
  • More...
Scroll to top